Mỗi năm Việt Nam phát hiện thêm khoảng 13.000 ca nhiễm HIV mới. Tính đến nay nước ta đã ghi nhận tổng cộng hơn 267.400 ca bệnh HIV với hơn 116.000 người đã tử vong. Trong bài viết này, hãy cùng DIAG tìm hiểu rõ HIV là gì, cấu tạo của HIV, triệu chứng của bệnh. Qua đó bạn sẽ hiểu được tầm quan trọng của việc sàng lọc sớm cũng như có hướng phòng bệnh hiệu quả.

HIV là bệnh gì? HIV từ đâu ra?

HIV là bệnh nhiễm trùng do virus HIV gây ra. Loại virus này có khả năng tấn công mạnh mẽ vào hệ miễn dịch (đặc biệt là tế bào miễn dịch Lympho TCD4+) khiến cơ thể suy yếu dần trong việc chống lại các tác nhân gây bệnh. Nếu không được điều trị hiệu quả, nhiễm HIV có thể tiến triển thành bệnh AIDS – đây là giai đoạn cuối với nguy cơ tử vong rất cao.

Một số nghiên cứu cho biết, virus HIV (Human Immunodeficiency Virus) có nguồn gốc từ virus SIV (Simian Immunodeficiency Virus) gây suy giảm miễn dịch ở khỉ và tinh tinh. Sau đó, SIV dần biến đổi thành HIV gây suy giảm miễn dịch ở người.

Theo thời gian, bệnh HIV lan rộng toàn thế giới với hai chủng đã được y học ghi nhận là HIV-1 và HIV-2. Virus HIV-1 là chủng phổ biến nhất trên toàn cầu với khả năng lây nhiễm cao, thường được nhắc đến khi nói về bệnh HIV. Trong khi đó, HIV-2 tập trung chủ yếu ở Tây Phi, châu Âu, Hoa Kỳ và Ấn Độ.

Trong các nội dung tiếp theo khi phân tích về HIV, bài viết sẽ tập trung vào HIV-1.

HIV là bệnh do virus HIV (Human Immunodeficiency Virus) gây ra và có thể tiến triển thành bệnh AIDS với nguy cơ tử vong cao.
HIV là bệnh do virus HIV (Human Immunodeficiency Virus) gây ra và có thể tiến triển thành bệnh AIDS với nguy cơ tử vong cao.

HIV có đáng sợ không? Biến chứng nguy hiểm của HIV

Nhờ cấu trúc đặc biệt phức tạp mà HIV có thể gây nhiều hậu quả sức khỏe nặng nề khi xâm nhập vào cơ thể. Khi miễn dịch suy yếu do bị HIV, cơ thể không còn khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh. Người bệnh có khả năng mắc ung thư, nhiễm trùng cơ hội và bệnh AIDS. Đây đều là những biến chứng nghiêm trọng đe dọa trực tiếp đến tính mạng bệnh nhân.

Nhiễm trùng cơ hội

  • Lao: Đây là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở các bệnh nhân HIV. Lao không chỉ gây bệnh ở phổi mà có thể lan đến màng não, hạch, xương và các cơ quan nội tạng khác.
  • Nhiễm nấm Candida: Đây là biến chứng nhiễm trùng cơ hội thường gặp ở người nhiễm HIV. Nhiễm trùng làm tổn thương miệng, thực quản, niêm mạc, nhiễm nấm máu và nhiễm trùng khu trú tại nhiều vị trí trên cơ thể. Người bệnh có thể bị xuất huyết võng mạc, giảm bạch cầu trung tính và nhiễm trùng mắt.
  • Nhiễm nấm Cryptococcus: Đây là biến chứng nặng ở người nhiễm HIV giai đoạn AIDS. Nhiễm trùng ảnh hưởng hệ thần kinh trung ương dẫn đến tổn thương phổi, da và não. Nặng nhất là viêm phổi và viêm màng não gây tử vong nhanh chóng.
  • Nhiễm Toxoplasma gondii: Người bệnh có các triệu chứng như sốt, co giật, yếu liệt tay chân hoặc hôn mê. Nhiễm toxoplasma ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng thần kinh và làm tăng nguy cơ tử vong.

Biến chứng ung thư

  • Ung thư hạch: Cơ thể người bệnh nổi hạch bạch huyết ở cổ, nách và bẹn. Ung thư tiến triển nhanh, dễ tái phát, dễ di căn đến các cơ quan nội tạng và có tỷ lệ tử vong rất cao.
  • Ung thư Kaposi Sarcoma: Một loại ung thư da với biểu hiện là các mảng màu tím/hồng/nâu/đỏ. Ung thư này có thể lan đến phổi, đường tiêu hóa, hạch bạch huyết, gây đau, khó thở, chảy máu tiêu hóa, suy nhược toàn thân và đe dọa trực tiếp đến tính mạng.
  • Ung thư cổ tử cung: Đây là biến chứng do virus HPV gây nên, chủ yếu là ở phụ nữ nhiễm HIV. Bệnh gây ra chảy máu âm đạo bất thường, đau vùng chậu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sinh sản và tính mạng.

Những biến chứng nguy hiểm khác

  • Hội chứng suy nhược mãn tính: Biến chứng gây rối loạn chuyển hóa – hấp thu dinh dưỡng, dẫn đến suy kiệt thể lực nghiêm trọng và dễ mắc thêm nhiễm trùng hoặc bệnh ác tính. Hội chứng này không chỉ làm tăng nguy cơ tử vong mà còn đòi hỏi can thiệp toàn diện để kiểm soát HIV, hỗ trợ dinh dưỡng, điều trị triệu chứng và phục hồi chức năng.
  • Biến chứng thần kinh: HIV có thể gây ra các rối loạn như viêm não do HIV, sa sút trí tuệ, rối loạn nhận thức, viêm màng não vô khuẩn và bệnh thần kinh ngoại biên. Người bệnh có thể gặp các triệu chứng như suy giảm trí nhớ, khó tập trung, thay đổi tâm trạng, mất phối hợp vận động, lú lẫn và mất khả năng tự chăm sóc.

Xem thêm: Tác hại của HIV/AIDS

Bệnh AIDS

Nếu không được điều trị, HIV tiến triển đến giai đoạn cuối gọi là bệnh AIDS. Đây là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (Acquired ImmunoDeficiency Syndrome), là tình trạng mà hệ miễn dịch đã bị tàn phá nghiêm trọng. Người bệnh có nguy cơ rất cao mắc bệnh lao, nhiễm nấm HIV như Candida hoặc ung thư hạch, ung thư Kaposi Sarcoma.

AIDS hiện tại vẫn chưa có bất kỳ phương thuốc chữa trị nào. Việc dùng thuốc trong giai đoạn cuối chỉ nhằm mục đích kéo dài tuổi thọ và làm chậm tiến triển của bệnh. Tất cả các phương pháp chữa trị HIV hoặc AIDS hiện nay đều không có khả năng điều trị dứt điểm căn bệnh này. Do đó, có thể nói rằng AIDS chính là “cửa tử” đối với người nhiễm HIV.

Ung thư hạch do nhiễm HIV là khi xuất hiện hạch bạch huyết ở cổ, nách, bẹn.
Ung thư hạch do nhiễm HIV là khi xuất hiện hạch bạch huyết ở cổ, nách, bẹn.
diag
Xét nghiệm sớm HIV không cần đợi 2-4 tuần
  • Sử dụng công nghệ RNA PCR hiện đại
  • Phát hiện sớm nhất – chỉ sau 5-7 ngày phơi nhiễm.
  • Độ nhạy cực cao – phát hiện ngay cả khi tải lượng virus thấp
  • Rút ngắn thời gian lo lắng, hỗ trợ quyết định điều trị sớm.
200+
Cơ sở y tế đối tác
2400+
Bác sĩ tin tưởng

Con đường lây truyền HIV

Đường máu

HIV khi được truyền qua đường máu sẽ tấn công trực tiếp vào tế bào Lympho TCD4+. Đây là tế bào có trong máu giúp bảo vệ cơ thể trước các tác nhân gây hại. Virus sẽ bám vào TCD4+ và nhân lên, sau đó lây lan nhanh chóng sang những tế bào khác. Số lượng TCD4+ bị tấn công càng nhiều thì hệ miễn dịch càng yếu. Nghĩa là cơ thể rất dễ tổn thương trước các bệnh lý và nhiễm trùng cơ hội.

Nguyên nhân HIV lây qua đường máu thường là:

  • Tiếp xúc với máu người nhiễm HIV qua vết thương hở hoặc niêm mạc bị trầy xước.
  • Bị các vật sắc nhọn đã dính máu người nhiễm HIV cắt xuyên qua da.
  • Được hiến máu, cấy mô, hoặc ghép tạng từ người nhiễm HIV.

Đường tình dục

Miệng, dương vật, hậu môn và âm đạo là những vị trí lây truyền chính. Do virus có thể tồn tại trong dịch cơ thể của nam và nữ nên dễ dàng truyền bệnh nếu không có biện pháp bảo vệ phù hợp. Đặc biệt, những người nhận tinh dịch có nguy cơ nhiễm bệnh rất cao, bất kể đó là hình thức QHTD nào.

Đường sinh sản từ mẹ sang con

Virus có thể tồn tại trong nước ối, dịch tử cung, dịch âm đạo và sữa của người mẹ. Do đó HIV có thể lây truyền từ mẹ sang con khi mang thai, sinh nở và sau sinh nếu không có biện pháp phòng tránh phù hợp.

  • Mang thai: Truyền virus từ máu nhiễm bệnh của mẹ sang thai nhi qua nhau thai.
  • Chuyển dạ: Truyền sang con qua các vùng như hậu môn, mắt, mũi, hoặc các vết xây xát trên cơ thể bé.
  • Cho con bú: Truyền qua sữa mẹ hoặc thông qua các tổn thương ở núm vú của mẹ. Tỷ lệ nhiễm tăng cao ở những trẻ có tổn thương vùng miệng hoặc đường hô hấp.
HIV có thể lây truyền qua sữa mẹ.
HIV có thể lây truyền qua sữa mẹ.

Những con đường không lây truyền HIV

HIV không thể tồn tại khi ở bên ngoài vật chủ. Các chuyên gia y tế chỉ ra những con đường không thể bị nhiễm HIV như sau:

  • Nước bọt, nước mắt, và mồ hôi.
  • Không khí.
  • Dùng chung chén đĩa và vật dụng ăn uống.
  • Các hoạt động hàng ngày: Bắt tay, ôm ấp, hôn môi, ăn uống, dùng chung nhà vệ sinh…
  • Muỗi, ve, hoặc các loài côn trùng khác.

Xem thêm: Virus HIV sống được bao lâu ngoài môi trường?

Triệu chứng nhiễm HIV

Bệnh HIV tiến triển qua 4 giai đoạn (sơ nhiễm → nhiễm trùng không triệu chứng → cận AIDS → bệnh AIDS). Người nhiễm HIV có nhiều triệu chứng khác nhau ở mỗi thời kỳ. Tuy giống với bệnh cúm hoặc truyền nhiễm thông thường, nhưng các triệu chứng lặp đi lặp lại và ngày càng nặng theo thời gian.

  • Giai đoạn 1: Dấu hiệu HIV phổ biến là sốt cao trên 38 độ không rõ nguyên nhân, ớn lạnh, tiêu chảy, sụt cân, đổ mồ hôi đêm, mất ngủ, mệt mỏi, nổi phát ban đỏ, đau đầu, đau nhức cơ thể, sưng hạch bạch huyết, ho, viêm họng, loét bộ phận sinh dục…
  • Giai đoạn 2: Không có triệu chứng, nhưng virus vẫn âm thầm phát triển mạnh mẽ trong cơ thể. Các triệu chứng trước đó thường không xuất hiện trở lại trong giai đoạn này.
  • Giai đoạn 3: Triệu chứng giai đoạn 1 xuất hiện trở lại hoặc tái phát nặng hơn. Đồng thời kèm theo những triệu chứng mới: tiêu chảy kéo dài hơn 1 tháng, Sụt cân nặng khoảng 10% trọng lượng cơ thể, nổi hạch và ngứa toàn thân, suy nhược cơ thể, viêm họng nặng. Nấm miệng xuất hiện ở khoang miệng, họng, lưỡi với nhiều mảng trắng và lở loét.
  • Giai đoạn 4: Đây là giai đoạn mà triệu chứng bệnh HIV diễn ra nghiêm trọng nhất. Bao gồm triệu chứng ở các giai đoạn HIV trước và tiếp diễn nặng hơn, có thể biểu hiện triệu chứng của các bệnh lý cơ hội hoặc đồng nhiễm HIV.

Xem thêm: Người nhiễm HIV dễ mắc bệnh gì?

HIV thời kỳ đầu có các triệu chứng giống cúm.
HIV thời kỳ đầu có các triệu chứng giống cúm.

Đối tượng nguy cơ cao nhiễm HIV

Tất cả mọi người đều có thể bị nhiễm HIV. Đặc biệt là những đối tượng sau có nguy cơ rất cao:

  • QHTD không sử dụng bao cao su, có nhiều bạn tình.
  • QHTD qua đường âm đạo, hậu môn và đường miệng.
  • Có bạn tình nhiễm/nghi nhiễm HIV, hoặc các bệnh qua đường tình dục như bệnh chlamydia, lậu, giang mai…
  • Nam giới có QHTD qua đường hậu môn không an toàn với một người đàn ông khác.
  • Đang mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục như bệnh lậu, giang mai, sùi mào gà…
  • Nhiễm virus viêm gan B, viêm gan C.
  • Tham gia vào các hoạt động bán dâm, tiêm chích ma túy, chất gây nghiện… hoặc có bạn tình thuộc trường hợp này.
  • Dùng chung vật dụng sắc nhọn dễ gây chảy máu như bơm kim tiêm, dao cạo… với người nhiễm/nghi nhiễm HIV.
  • Vô tình bị kim hoặc vật sắc nhọn đâm vào người khi đến thăm khám tại các cơ sở y tế.
  • Tiếp xúc và làm việc với các nguồn máu: Y bác sĩ, kỹ thuật viên lấy máu và xét nghiệm máu, công an, quân đội…
  • Người mắc bệnh lao: Đã được khám lâm sàng và được xét nghiệm cận lâm sàng nhưng vẫn không phát hiện được nguyên nhân gây bệnh hoặc có các triệu chứng gợi ý nhiễm HIV.

Xem thêm: Các bệnh lây qua đường miệng khi quan hệ

Phương pháp sàng lọc và chẩn đoán HIV

Việc lựa chọn phương pháp sàng lọc cần phù hợp với từng giai đoạn nhiễm HIV, vì mỗi giai đoạn có mức độ virus, kháng thể và biểu hiện miễn dịch khác nhau. Trong đó, xét nghiệm kháng thể (như kit test) hoặc xét nghiệm kháng nguyên/kháng thể (như HIV Combo Ag+Ab) thường được sử dụng tại các cơ sở y tế để sàng lọc nhanh HIV.

  • Xét nghiệm kháng thể HIV: Xét nghiệm dựa trên cơ chế phát hiện kháng thể do cơ thể sinh ra để chống lại HIV. Phương pháp này có độ chính xác cao sau khoảng 3 – 12 tuần từ lúc phơi nhiễm. Tuy nhiên, xét nghiệm không thể phát hiện được bệnh trước khi có kháng thể HIV. Do đó nó có thể bỏ sót các trường hợp nhiễm HIV nếu xét nghiệm quá sớm.
  • Xét nghiệm kết hợp kháng nguyên và kháng thể HIV: Phổ biến nhất là xét nghiệm HIV Combo Ag+Ab. Phương pháp này có hiệu quả vượt trội giúp phát hiện đồng thời kháng nguyên p24 và kháng thể HIV-1/2 sau 15 ngày kể từ khi xác định lây nhiễm.

Ngay cả khi kết quả xét nghiệm sàng lọc dương tính thì vẫn chưa đủ cơ sở để khẳng định đã nhiễm HIV. Do đó cần làm thêm xét nghiệm khẳng định để xác định chắc chắn tình trạng nhiễm bệnh.

Hai phương pháp khẳng định HIV phổ biến là:

  • Xét nghiệm Western Blot (hoặc Immunoblot): Đây là một tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán HIV. Xét nghiệm giúp phát hiện các kháng thể đặc hiệu chống lại từng cấu trúc riêng biệt của virus HIV, từ đó khẳng định chính xác tình trạng nhiễm HIV.
  • Xét nghiệm PCR HIV: Phương pháp này phân tích ARN/ADN của virus HIV, giúp xác định nhiễm HIV ngay cả trong giai đoạn rất sớm khi kháng thể và kháng nguyên chưa xuất hiện đủ để được phát hiện. Xét nghiệm này đặc biệt hữu ích để khẳng định khi kết quả sàng lọc và Western Blot là không xác định, hay khi cần xác định nhiễm HIV ở trẻ sơ sinh.

Xem thêm: Bệnh hoa liễu

PCR là xét nghiệm khẳng định giúp chẩn đoán HIV chính xác nhất hiện nay.
PCR là xét nghiệm khẳng định giúp chẩn đoán HIV chính xác nhất hiện nay.

Điều trị HIV theo phác đồ của Bộ Y Tế

Tất cả người nhiễm HIV cần được điều trị ưu tiên bằng thuốc kháng virus (ARV) chứa hoạt chất Dolutegravir (DTG) càng sớm càng tốt ngay sau khi có chẩn đoán dương tính. Đây là phác đồ điều trị chuẩn của Bộ Y Tế Việt Nam, không phụ thuộc vào giai đoạn lâm sàng hay số lượng tế bào TCD4+.

Trong trường hợp mắc các nhiễm trùng cơ hội hoặc bệnh đồng nhiễm HIV thì cần kết hợp điều trị thêm các bệnh lý này.

  • Lao: Bắt buộc điều trị lao trước, sau đó điều trị HIV trong thời gian sớm. Trường hợp đặc biệt (như lao màng não) có thể phải trì hoãn điều trị HIV để giảm nguy cơ hội chứng viêm phục hồi miễn dịch.
  • Viêm gan siêu vi B: Điều trị cần đảm bảo vừa kiểm soát HIV vừa ngăn ngừa tổn thương gan do virus viêm gan B. Các thuốc được chọn thường có hiệu quả kép giúp kiểm soát cả hai bệnh cùng lúc.
  • Viêm gan siêu vi C: Nếu miễn dịch còn tốt hoặc đã kiểm soát được HIV, nên ưu tiên điều trị viêm gan C trước để giảm nguy cơ xơ gan hoặc ung thư gan.
  • Nhiễm nấm hệ thần kinh do Cryptococcus: Người bệnh cần được điều trị nhiễm nấm trước khi bắt đầu điều trị HIV. Việc này nhằm tránh phản ứng viêm quá mức của hệ miễn dịch khi sức đề kháng được phục hồi, có thể gây nguy hiểm cho hệ thần kinh.
  • Các nhiễm trùng cơ hội khác (Herpes, Cytomegalovirus…): Việc điều trị cần tùy thuộc vào từng loại bệnh cụ thể. Hướng dẫn điều trị thường bao gồm xử lý triệu chứng, kết hợp điều trị nguyên nhân và tiếp tục kiểm soát HIV hiệu quả.

Điều trị HIV không chỉ dùng thuốc mà còn bao gồm việc theo dõi thường xuyên để đánh giá chức năng gan, thận, hệ miễn dịch và tải lượng virus. Người bệnh cũng cần duy trì thói quen sống lành mạnh cùng chế độ ăn đủ dinh dưỡng. Đây là giải pháp tốt nhất giúp tăng cường đề kháng chống lại sự tấn công virus.

Xem thêm: Tải lượng virus HIV bao nhiêu là cao?

Cách phòng ngừa HIV hiệu quả

Phương pháp phòng ngừa HIV tập trung vào việc hạn chế sự lây lan của virus, đặc biệt là qua đường tình dục.

  • QHTD an toàn có sử dụng bao cao su.
  • Không QHTD với nhiều đối tác và những người chưa rõ lai lịch.
  • Không tiếp xúc với nguồn máu lạ.
  • Tránh ma túy hoặc chất gây nghiện có thể ảnh hưởng đến sự tỉnh táo và khả năng kiểm soát của bản thân về các hoạt động tình dục.
  • Tránh dùng chung kim tiêm và ống tiêm đã được sử dụng bởi những người sử dụng ma túy.
  • Không đến những nơi tụ tập nhiều người nghiện, hút chích.
  • Chủ động kiểm tra sức khỏe và xét nghiệm sàng lọc HIV định kỳ.

Chuyên gia y tế khuyến cáo nên sử dụng thêm thuốc chống phơi nhiễm HIV để bảo vệ bản thân tốt hơn. Thuốc dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) dành cho người có nguy cơ cao mắc bệnh. Thuốc dự phòng sau phơi nhiễm (PEP) dành cho đối tượng đã tiếp xúc với HIV mà không có biện pháp bảo vệ.

Cả hai loại thuốc rất quan trọng trong việc phòng ngừa HIV và cần sử dụng đúng theo hướng dẫn y tế để tránh tác dụng phụ.

  • Đối với PrEP: Cần dùng thuốc trước chứ không chỉ sau mỗi lần có thể phơi nhiễm.
  • Đối với PEP: Tối ưu nhất là trong vòng ba ngày kể từ khi tiếp xúc với virus.

Xem thêm: STD là gì?

Thuốc ARV là giải pháp hiệu quả nhất hiện nay để cải thiện tình trạng bệnh do nhiễm HIV.
Thuốc ARV là giải pháp hiệu quả nhất hiện nay để cải thiện tình trạng bệnh do nhiễm HIV.

Một số thắc mắc liên quan đến bệnh HIV

1. HIV và AIDS có gì khác nhau?

HIV sau khi tiến triển qua một khoảng thời gian sẽ đến AIDS. Thuật ngữ HIV được sử dụng để chỉ tình trạng nhiễm HIV nói chung. Còn thuật ngữ AIDS dùng để chỉ giai đoạn AIDS.

2. Nhiễm HIV bao lâu thì chuyển sang AIDS?

Thời gian từ lúc nhiễm HIV đến khi chuyển sang AIDS có thể khác nhau ở mỗi người. Điều này phụ thuộc các yếu tố như hệ miễn dịch mạnh hay yếu, tình trạng sức khỏe tổng thể, và khả năng tiếp cận điều trị. Nếu được điều trị, quá trình chuyển biến bệnh này có thể kéo dài từ 10 đến 15 năm hoặc lâu hơn.

3. Bội nhiễm HIV là gì?

Bội nhiễm HIV là hiện tượng người nhiễm HIV mắc thêm các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Trong đó, các bệnh truyền nhiễm khác có thể là lao, nhiễm nấm Candida, nấm Cryptococcus và Toxoplasma gondii.

4. Có thể đồng nhiễm lao/HIV không?

Đồng nhiễm lao/HIV là tình trạng một người nhiễm HIV và mắc thêm bệnh lao. Trong trường hợp này, lao là bệnh nhiễm trùng cơ hội thường xảy ra khi nhiễm HIV ở giai đoạn AIDS.

Xem thêm: Herpes sinh dục

5. Uống máu người nhiễm HIV có bị lây không?

Nuốt hoặc uống máu người nhiễm HIV vẫn có nguy cơ nhiễm bệnh. Tuy nhiên, khả năng lây nhiễm cao hay thấp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tốnhư nồng độ virus trong máu, tổn thương ở đường tiêu hóa, lượng máu nuốt phải.

6. Quan hệ bằng tay có bị HIV không?

Các hoạt động quan hệ dùng tay xâm nhập trực tiếp tới hậu môn và âm đạo đều có nguy cơ lây truyền cao nếu tiếp xúc với tinh dịch hoặc dịch âm đạo của người đã nhiễm bệnh. 

7. Vết thương không chảy máu có lây HIV không?

Vết thương không chảy máu có nguy cơ lây nhiễm HIV thấp hơn so với vết thương hở chảy máu, nhưng vẫn có thể xảy ra. Những vết trầy xước nhẹ hoac vết thương nông thường có tỷ lệ lây nhiễm thấp. Nguyên nhân do máu người nhiễm HIV chỉ tiếp xúc đến niêm mạc không bị tổn thương viêm loét.