Xét nghiệm lẻ

Vi-rút Epstein-Barr (EBV) thường không gây ra các triệu chứng hoặc các triệu chứng nhẹ không đặc hiệu. Người nhiễm EBV có triệu chứng thường hồi phục sau hai đến bốn tuần. Sau khi nhiễm, EBV sẽ tồn tại ở dạng không hoạt động trong cơ thể và có thể tái hoạt động trở lại trong một số trường hợp. Sự hiện diện của kháng thể IgM cho thấy tình trạng đang nhiễm EBV, trong khi IgG dương tính cho thấy đã từng nhiễm trước đó.
Axit folic là một thành phần của vitamin B9, có vai trò trong việc hình thành các tế bào mới. Đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, acid folic đóng một vai trò rất quan trọng. Bổ sung đủ axit folic trước và trong khi mang thai giúp ngăn ngừa các dị tật bẩm sinh nghiêm trọng ở não hoặc cột sống của thai nhi.
HIV là viết tắt của virus gây suy giảm miễn dịch ở người. HIV làm suy yếu hệ thống miễn dịch của một người bằng cách phá hủy các tế bào có chức năng chống bệnh tật và nhiễm trùng. Hiện tại chưa có cách chữa trị dứt điểm HIV nhưng với sự chăm sóc y tế thích hợp có thể giúp kiểm soát được bệnh. Bệnh nhân HIV không được điều trị sẽ tiến triển qua ba giai đoạn. Giai đoạn 1 là nhiễm trùng cấp tính với các triệu chứng giống nhiễm cúm và rất dễ lây lan. Giai đoạn 2 là nhiễm trùng mãn tính không có triệu chứng nhưng cũng có thể truyền bệnh. Giai đoạn 3 là Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) là giai đoạn nặng nhất của nhiễm HIV với sự xuất hiện ngày càng nhiều các bệnh nhiễm trùng cơ hội hoặc các bệnh hiểm nghèo khác.
Định lượng HIV-1 RNA là xét nghiệm định lượng RNA của virus gây suy giảm hệ miễn dịch ở người, thuộc nhóm HIV-1. Định lượng HIV-1 RNA hỗ trợ trong chẩn đoán, theo dõi điều trị, tiên lượng bệnh và đánh giá đáp ứng điều trị với thuốc kháng virus bằng đo tải lượng HIV-1 RNA trong huyết tương.
Xét nghiệm hơi thở urê được sử dụng để hỗ trợ chẩn đoán nhiễm vi khuẩn H.pylori – tác nhân gây bệnh viêm loét dạ dày tá tràng. Xét nghiệm này cũng được sử dụng để đánh giá hiệu quả điều trị sau khi hoàn tất việc dùng thuốc tối thiểu là 4 tuần.
Mụn rộp sinh dục là bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) do vi rút herpes simplex type 1 (HSV-1) hoặc type 2 (HSV-2) gây ra. HSV-1 thường gây bệnh ở miệng trong khi HSV-2 chủ yếu gây bệnh ở bộ phận sinh dục. Hầu hết người bệnh không có triệu chứng hoặc có triệu chứng rất nhẹ. Kết quả dương tính với Kháng thể IgG của Herpes simplex virus cho biết đã từng bị nhiễm trong quá khứ, đang nhiễm hoặc mạn tính trong khi kháng thể IgM dương tính cho thấy tình trạng mới nhiễm gần đây.
Mụn rộp sinh dục là bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) do vi rút herpes simplex type 1 (HSV-1) hoặc type 2 (HSV-2) gây ra. HSV-1 thường gây bệnh ở miệng trong khi HSV-2 chủ yếu gây bệnh ở bộ phận sinh dục. Hầu hết người bệnh không có triệu chứng hoặc có triệu chứng rất nhẹ. Biểu hiện lâm sàng của herpes sinh dục khác nhau giữa đợt bùng phát đầu tiên và tái phát. Kết quả dương tính với Kháng thể IgG của Herpes simplex virus cho biết đã từng bị nhiễm trong quá khứ, đang nhiễm hoặc mạn tính trong khi kháng thể IgM dương tính cho thấy tình trạng mới nhiễm gần đây.
IGRA đo lường phản ứng miễn dịch của một người đối với Mycobacterium tuberculosis - tác nhân gây bệnh lao. Các tế bào bạch cầu ở người đã nhiễm trực khuẩn lao sẽ giải phóng interferon-gamma (IFN-g) khi được trộn với các kháng nguyên (chất có thể tạo ra phản ứng miễn dịch) có nguồn gốc từ M. tuberculosis.
Các bệnh lý liên quan đến chuyển hóa sắt thường gặp và có thể là do thiếu sắt hoặc quá tải sắt. Thiếu sắt có thể do tăng đào thải sắt hoặc giảm cung cấp. Quá tải sắt xảy ra khi vượt quá khả năng liên kết sắt của transferrin. Quá tải sắt cũng có thể xảy ra khi quá trình dị hóa hồng cầu tăng bất thường. Mức độ sắt được sử dụng để giúp chẩn đoán các loại thiếu máu cụ thể.
loading.svg