Xét nghiệm lẻ

Xét nghiệm 17-OH-Progesterone được dùng để sàng lọc, chẩn đoán bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh.
Xét nghiệm giúp xác định lượng ApoA trong cơ thể, giúp chẩn đoán các trường hợp suy giảm ApoA và đánh giá nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch.
Apolipoprotein B (gọi tắt là ApoB) là phân tử protein giúp vận chuyển chất béo và cholesterol đi khắp cơ thể. Bình thường, cơ thể cần chất béo và cholesterol để sản xuất một số hormone và đảm bảo sự hoạt động bình thường của tế bào. Vì các phân tử chất béo này không tan trong nước, nên có thể gây tắc nghẽn trong lòng mạch, có thể dẫn đến
Tỷ số ApolipoproteinB/ApolipoproteinA-1 là một chỉ số phản ánh sự cân bằng giữa các hạt lipoprotein gây xơ vữa và các hạt lipoprotein chống xơ vữa. Khi cân bằng này bị phá vỡ, xơ vữa động mạch tiến triển và dẫn đến nhồi máu não. Ngoài ra, tỷ số ApoB/ApoA-1 cũng là yếu tố dự báo nguy cơ mạnh cho các biến cố tim mạch khác như nhồi máu cơ tim, đau thắt ngực, suy tim so với các xét nghiệm kiểm tra mỡ trong máu cổ điển như cholesterol toàn phần, triglyceride, LDL-cholesterol, HDL-cholesterol.
Xét nghiệm đo lường một loại hormone trong cơ thể gọi là hCG, được sản xuất trong quá trình mang thai bởi nhau thai, được tìm thấy trong máu và nước tiểu. Xét nghiệm hCG có thể giúp chẩn đoán có thai sau cũng như có thể giúp xác định các tai biến sản khoa.
Chất béo trong cơ thể tồn tại dưới 4 dạng chính bao gồm Cholesterol, LDL-cholesterol, HDL-cholesterol, triglyceride. HDL là cholesterol tốt, giúp hấp thụ cholesterol trong máu và vận chuyển trở lại gan, các thành phần còn lại cholesterol xấu. . Xét nghiệm các thành phần mỡ máu giúp đánh giá nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đột quỵ và các hậu quả khác do hẹp hoặc tắc nghẽn động mạch gây ra.
Cholesterol là chất được tìm thấy ở nhiều cơ quan khác nhau của cơ thể. Thông thường, cơ thể cần cholesterol cho một vài hoạt động sống. Tuy nhiên, tăng cholesterol trong máu có thể dẫn đến tắc mạch, gây nên các bệnh lý tim mạch và đột quỵ,
Sàng lọc các bất thường của thai nhi trong 3 tháng đầu thai kỳ bao gồm: Siêu âm kiểm tra độ mờ da gáy (NT), PAPP-A, hCG. Việc phối hợp các xét nghiệm này giúp tăng khả năng phát hiện các dị tật bẩm sinh như hội chứng Down, hội chứng Edward, Hội chứng Patau. Nếu kết quả bất thường, cần làm thêm các xét nghiệm khác như chọc ối, siêu âm thai đánh giá toàn diện để đưa ra chẩn đoán xác định.
HAV là một trong những nguyên nhân phổ biến gây viêm gan. Hệ thống miễn dịch tạo ra các kháng thể IgM khi nhiễm HAV lần đầu, thường bắt đầu xuất hiện trong máu của bạn từ 5 đến 10 ngày trước khi xuất hiện triệu chứng. Kháng thể này có thể tồn tại trong máu khoảng 6 tháng sau khi nhiễm HAV. Ngược lại, kháng thể IgG có thể tồn tại trong máu suốt đời.
HAV là một trong những nguyên nhân phổ biến gây viêm gan. Hệ thống miễn dịch tạo ra các kháng thể IgM khi nhiễm HAV lần đầu, thường bắt đầu xuất hiện trong máu của bạn từ 5 đến 10 ngày trước khi xuất hiện triệu chứng. Kháng thể này có thể tồn tại trong máu khoảng 6 tháng sau khi nhiễm HAV. Ngược lại, kháng thể IgG có thể tồn tại trong máu suốt đời.
Viêm gan siêu vi A thường lây truyền qua ăn hoặc uống thực phẩm đã chứa virus. Hầu hết người nhiễm viêm gan siêu vi A tự hồi phục và không để lại biến chứng tại gan. Xét nghiệm giúp phát hiện tình trạng đã từng nhiễm, đang nhiễm hoặc đã được chủng ngừa đối với vi rút Viêm gan A.
Virus viêm gan B là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây viêm gan. Hệ thống miễn dịch tạo ra các kháng thể IgM chống lại HBV trong giai đoạn cấp. Kháng thể này xuất hiện trong máu vài tuần sau khi nhiễm HBV lần đầu. Những người đã tiêm vắc xin sẽ không có kháng thể này trong máu. Xét nghiệm giúp xác định tình trạng đang nhiễm vi-rút viêm gan B.
Xét nghiệm định lượng kháng thể lõi virus viêm gan B nhằm phân biệt các trường hợp có kháng thể viêm gan do tiêm vaccine hoặc có tiền sử bị viêm gan B cấp tính đã chữa khỏi Có thể sử dụng kết hợp với các chỉ số miễn dịch viêm gan khác trong quá trình đánh giá hiệu quả điều trị trên BN viêm gan B
Virus viêm gan B (HBV) là một trong những nguyên nhân chính gây viêm gan. Kháng nguyên e của viêm gan siêu vi B (HBeAg) xuất hiện sau khi bị nhiễm HBV. Thông thường, sự hiện diện của HBeAg cho thấy tải lượng virus cao và tăng khả năng lây nhiễm; tuy nhiên, HBV thể đột biến không tạo ra kháng nguyên 'e', vì vậy điều này không phải lúc nào cũng đúng. HBeAg có thể chuyển sang âm tính và các kháng thể chống lại kháng nguyên 'e' (anti-HBe) sẽ xuất hiện ngay sau đó, cho thấy tải lượng virus đã giảm đáng kể.
loading.svg