Xét nghiệm lẻ

Hemoglobin (huyết sắc tố) là một loại protein trong các tế bào hồng cầu có nhiệm vụ vận chuyển oxy từ phổi đến các cơ quan khác nhau của cơ thể. Có nhiều loại huyết sắc tố khác nhau. Điện di huyết sắc tố là xét nghiệm đo thành phần các loại huyết sắc tố. Xét nghiệm này giúp phát hiện các rối loạn liên quan đến tỷ lệ bất thường của các loại huyết sắc tố.
Hemoglobin là một loại protein trong các tế bào hồng cầu, có nhiệm vụ mang oxy từ phổi đến các cơ quan trong cơ thể. Có nhiều loại huyết sắc tố khác nhau. Điện di huyết sắc tố là một xét nghiệm đo thành phần các loại huyết sắc tố cũng như sự bất thường liên quan đến các bệnh lý.
Điện di protein huyết thanh (SPE) giúp phân tích 6 thành phần của protein huyết thanh bao gồm: Albumin, Alpha-1, Alpha-2, Beta-1, Beta-2 và Gamma. Tăng, giảm hoặc thay đổi tỷ lệ các thành phần này giúp hỗ trợ chẩn đoán nhiều tình trạng bệnh khác nhau và các bất thường liên quan đến protein.
Fibrinogen là một loại protein trong cơ thể được gọi là yếu tố đông máu. Các yếu tố đông máu kết hợp với nhau để hình thành cục máu đông, giúp cầm máu khi các mô hoặc mạch máu của cơ thể bị tổn thương. Xét nghiệm fibrinogen được sử dụng để đánh giá và theo dõi khi có các triệu chứng như chảy máu khó cầm hoặc tắc nghẽn bất thường (cục máu đông) trong mạch máu.
HAV là một trong những nguyên nhân phổ biến gây viêm gan. Hệ thống miễn dịch tạo ra các kháng thể IgM khi nhiễm HAV lần đầu, thường bắt đầu xuất hiện trong máu của bạn từ 5 đến 10 ngày trước khi xuất hiện triệu chứng. Kháng thể này có thể tồn tại trong máu khoảng 6 tháng sau khi nhiễm HAV. Ngược lại, kháng thể IgG có thể tồn tại trong máu suốt đời.
HAV là một trong những nguyên nhân phổ biến gây viêm gan. Hệ thống miễn dịch tạo ra các kháng thể IgM khi nhiễm HAV lần đầu, thường bắt đầu xuất hiện trong máu của bạn từ 5 đến 10 ngày trước khi xuất hiện triệu chứng. Kháng thể này có thể tồn tại trong máu khoảng 6 tháng sau khi nhiễm HAV. Ngược lại, kháng thể IgG có thể tồn tại trong máu suốt đời.
Viêm gan siêu vi A thường lây truyền qua ăn hoặc uống thực phẩm đã chứa virus. Hầu hết người nhiễm viêm gan siêu vi A tự hồi phục và không để lại biến chứng tại gan. Xét nghiệm giúp phát hiện tình trạng đã từng nhiễm, đang nhiễm hoặc đã được chủng ngừa đối với vi rút Viêm gan A.
Virus viêm gan B là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây viêm gan. Hệ thống miễn dịch tạo ra các kháng thể IgM chống lại HBV trong giai đoạn cấp. Kháng thể này xuất hiện trong máu vài tuần sau khi nhiễm HBV lần đầu. Những người đã tiêm vắc xin sẽ không có kháng thể này trong máu. Xét nghiệm giúp xác định tình trạng đang nhiễm vi-rút viêm gan B.
Xét nghiệm định lượng kháng thể lõi virus viêm gan B nhằm phân biệt các trường hợp có kháng thể viêm gan do tiêm vaccine hoặc có tiền sử bị viêm gan B cấp tính đã chữa khỏi Có thể sử dụng kết hợp với các chỉ số miễn dịch viêm gan khác trong quá trình đánh giá hiệu quả điều trị trên BN viêm gan B
Virus viêm gan B (HBV) là một trong những nguyên nhân chính gây viêm gan. Kháng nguyên e của viêm gan siêu vi B (HBeAg) xuất hiện sau khi bị nhiễm HBV. Thông thường, sự hiện diện của HBeAg cho thấy tải lượng virus cao và tăng khả năng lây nhiễm; tuy nhiên, HBV thể đột biến không tạo ra kháng nguyên 'e', vì vậy điều này không phải lúc nào cũng đúng. HBeAg có thể chuyển sang âm tính và các kháng thể chống lại kháng nguyên 'e' (anti-HBe) sẽ xuất hiện ngay sau đó, cho thấy tải lượng virus đã giảm đáng kể.
Đây là một loại protein do viêm gan siêu vi B tạo ra và được giải phóng từ các tế bào gan bị nhiễm bệnh vào máu. HBeAg dương tính cho thấy lượng vi-rút trong máu cao và tăng khả năng lây nhiễm. HBeAg âm tính cho thấy có rất ít hoặc không có vi-rút trong máu và ít nguy cơ lây nhiễm hơn; kết quả âm tính còn giúp chẩn đoán viêm gan siêu vi B thể đột biến.
loading.svg