HPV (Human papillomavirus), một loại virus rất phổ biến lây qua đường tình dục. Virus gây bệnh sùi mào gà (u nhú) ở người, được chia thành nhiều tuýp khác nhau, mỗi tuýp được xác định bằng cách đánh số. HPV các type 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66, 68 là các tuýp nguy cơ cao, làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung, âm đạo và âm hộ ở phụ nữ, cũng như ung thư dương vật ở nam giới. Ngoài ra, nhiễm HPV các type này còn có thể gây ung thư hậu môn, ung thư vòm họng ở nam và nữ.
Chloride là một chất điện giải giúp kiểm soát sự phân bố dịch và cân bằng pH trong cơ thể. Chloride thường được kiểm tra chung với các chất điện giải khác để chẩn đoán và theo dõi nhiều bệnh lý, bao gồm các bệnh lý thận, suy tim, bệnh gan…
Xét nghiệm đo lượng kháng thể chống lại streptolysin O, một chất được tạo ra bởi vi khuẩn liên cầu nhóm A. Hiệu giá tăng rõ rệt hoặc hiệu giá tăng liên tục gợi ý tình trạng nhiễm hoặc di chứng sau nhiễm Streptococcus.
Mụn rộp sinh dục là bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) do vi rút herpes simplex type 1 (HSV-1) hoặc type 2 (HSV-2) gây ra. HSV-1 thường gây bệnh ở miệng trong khi HSV-2 chủ yếu gây bệnh ở bộ phận sinh dục. Hầu hết người bệnh không có triệu chứng hoặc có triệu chứng rất nhẹ. Biểu hiện lâm sàng của herpes sinh dục khác nhau giữa đợt bùng phát đầu tiên và tái phát. Kết quả dương tính với Kháng thể IgG của Herpes simplex virus cho biết đã từng bị nhiễm trong quá khứ, đang nhiễm hoặc mạn tính trong khi kháng thể IgM dương tính cho thấy tình trạng mới nhiễm gần đây.
Virus viêm gan B (HBV) là một trong những nguyên nhân chính gây viêm gan. Kháng nguyên e của viêm gan siêu vi B (HBeAg) xuất hiện sau khi bị nhiễm HBV. Thông thường, sự hiện diện của HBeAg cho thấy tải lượng virus cao và tăng khả năng lây nhiễm; tuy nhiên, HBV thể đột biến không tạo ra kháng nguyên ‘e’, vì vậy điều này không phải lúc nào cũng đúng. HBeAg có thể chuyển sang âm tính và các kháng thể chống lại kháng nguyên ‘e’ (anti-HBe) sẽ xuất hiện ngay sau đó, cho thấy tải lượng virus đã giảm đáng kể.
Xét nghiệm bilirubin trực tiếp kiểm tra xem có bao nhiêu bilirubin trực tiếp trong máu. Bilirubin trực tiếp là chất mà gan đã xử lý xong và sẵn sàng đào thải ra khỏi cơ thể. Thông thường, gan lấy bilirubin có được từ việc phá vỡ các tế bào hồng cầu cũ, làm cho nó hòa tan trong nước và sau đó nó sẽ sẵn sàng được xử lý. Xét nghiệm này giúp phát hiện xem gan hoặc ống mật có bị tắc nghẽn hay không, chỉ ra liệu có tổn thương gan hay tắc nghẽn ống mật hay không. Đó là một cách nhanh chóng để đánh giá chức năng gan và xác định những trục trặc tiềm ẩn trong cách cơ thể xử lý chất thải.
Insulin là hormone giúp vận chuyển lượng đường (glucose) từ máu vào các tế bào. Do đó, Insulin có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh glucose ở mức phù hợp. Xét nghiệm giúp chẩn đoán nguyên nhân gây hạ đường huyết, chẩn đoán hoặc theo dõi tình trạng đề kháng insulin; chẩn đoán khối u ở tuyến tụy gây tăng tiết Insulin, xác định thời điểm cần bắt đầu điều trị Insulin ở bệnh nhân đái tháo đường type 2.
ACTH là hormone được sản xuất bởi tuyến yên, có chức năng kiểm soát việc sản xuất một loại hormone khác là cortisol. Cortisol do tuyến thượng thận sản xuất, đóng vai trò quan trọng trong chống stress, chống nhiễm trùng, điều hòa lượng đường trong máu và huyết áp… Xét nghiệm ACTH thường được thực hiện cùng với xét nghiệm cortisol để chẩn đoán bệnh lý tuyến yên hoặc tuyến thượng thận.
C3 là một phần của hệ thống bổ thể. Hệ thống bổ thể là một nhóm gồm gần 60 protein có vai trò quan trọng trong hệ thống miễn dịch và giúp bảo vệ cơ thể khỏi nhiễm trùng, đồng thời loại bỏ các tế bào chết và vật chất lạ. Xét nghiệm này thường được sử dụng để chẩn đoán hoặc theo dõi các bệnh tự miễn như bệnh lupus và viêm khớp dạng thấp.
Hệ thống bổ thể bao gồm gần 60 protein phối hợp với nhau để thúc đẩy các phản ứng miễn dịch và viêm nhiễm, tiêu diệt và loại bỏvi khuẩn và vi rút, cũng như các tế bào ”già” của cơ thể. C3 và C4 là các yếu tố của hệ thống bổ thể thường được xét nghiệm nhất.
NIPT là một bước tiến vượt bậc trong xét nghiệm tiền sản không xâm lấn, mở rộng phạm vi sàng lọc để bao gồm không chỉ các bất thường nhiễm sắc thể phổ biến mà còn cả các biến thể nhiễm sắc thể giới tính và các đột biến gen cụ thể. Điều này đồng nghĩa với việc các bậc cha mẹ tương lai có thể yên tâm hơn khi biết rằng sức khỏe di truyền của con yêu được kiểm tra toàn diện, từ hội chứng Klinefelter, hội chứng Triple X, hội chứng Jacobs cho đến các bệnh đơn gen di truyền từ mẹ và bệnh Thalassemia. Đặc biệt, gói NIPT còn tích hợp thêm gói xét nghiệm NIPT Carrier, một công cụ đắc lực giúp các bà mẹ tương lai nhận diện nguy cơ tiềm ẩn mang các bệnh di truyền và chủ động bảo vệ sức khỏe cho thế hệ mai sau. Với khả năng phân tích chuyên sâu và độ chính xác cao, gói NIPT không chỉ mang đến sự an tâm cho các bậc cha mẹ mà còn là một phần không thể thiếu trong hành trình chăm sóc sức khỏe toàn diện cho cả mẹ và bé.
PSA là loại protein được tạo ra bởi tuyến tiền liệt, thuộc hệ thống sinh sản nam giới. Hầu hết PSA trong máu được liên kết với protein huyết thanh. Một lượng nhỏ không liên kết với protein và được gọi là PSA tự do. Ở nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt, tỷ lệ PSA tự do trên tổng PSA giảm. Tỷ lệ này càng thấp thì khả năng ung thư tuyến tiền liệt càng cao.
Bệnh sởi là bệnh có tốc độ lây nhiễm cao, lây truyền qua giọt bắn của bệnh nhân trong không khí. Các triệu chứng của bệnh bao gồm tiêu chảy và nôn mửa, nhiễm trùng tai, viêm phổi… Mắc bệnh sởi trong thai kỳ có thể gây sinh non, nhẹ cân và tử vong ở thai nhi. Việc phát hiện các kháng thể IgM gợi ý tình trạng nhiễm trùng hiện tại hoặc gần đây. Ngược lại, sự hiện diện của kháng thể IgG cho thấy đã nhiễm ký sinh trùng trong thời gian dài.
Lipoprotein là một thành phần chất béo và protein được tìm thấy trong máu. Nó giúp vận chuyển cholesterol qua máu đến các tế bào. Có hai loại lipoprotein chính là lipoprotein cao mật độ (HDL) và lipoprotein thấp mật độ (LDL). Lipoprotein (a) là một loại LDL mang theo cholesterol đến các tế bào trong các động mạch. Giá trị cao liên quan đến các bệnh tim mạch.
Xét nghiệm định tính TPHA Dùng để phát hiện định tính kháng thể Treponema pallidum IgG và IgM đối với bệnh giang mai trong huyết thanh người.
Amylase là một loại enzyme giúp tiêu hóa carbohydrate. Hầu hết amylase trong cơ thể được tạo ra bởi tuyến tụy và tuyến nước bọt. Quá nhiều hoặc quá ít có thể là dấu hiệu của rối loạn tuyến tụy, tuyến nước bọt, hoặc một tình trạng bệnh lý khác.
Bệnh sởi là bệnh có tốc độ lây nhiễm cao, lây truyền qua giọt bắn của bệnh nhân trong không khí. Các triệu chứng của bệnh bao gồm tiêu chảy và nôn mửa, nhiễm trùng tai, viêm phổi… Mắc bệnh sởi trong thai kỳ có thể gây sinh non, nhẹ cân và tử vong ở thai nhi. Việc phát hiện các kháng thể IgM gợi ý tình trạng nhiễm trùng hiện tại hoặc gần đây. Ngược lại, sự hiện diện của kháng thể IgG cho thấy đã nhiễm trong thời gian dài.