Xét nghiệm lẻ

Xét nghiệm 17-OH-Progesterone được dùng để sàng lọc, chẩn đoán bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh.
Xét nghiệm dùng để phát hiện các bất thường liên quan đến quá trình tạo xương hoặc chức năng tuyến cận giáp, sư thiếu hụt vitamin D do kém hấp thu, để các bác sĩ đưa ra quyết định điều trị bệnh về xương hoặc theo dõi ở người đang được bổ sung Vitamin D
Xét nghiệm đo lường một loại hormone trong cơ thể gọi là hCG, được sản xuất trong quá trình mang thai bởi nhau thai, được tìm thấy trong máu và nước tiểu. Xét nghiệm hCG có thể giúp chẩn đoán có thai sau cũng như có thể giúp xác định các tai biến sản khoa.
Canxi là chất khoáng chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ thể. Canxi góp phần hình thành, củng cố xương và răng. Ngoài ra, canxi còn điều hòa sự co giãn cơ và mạch máu, sự tiết hormones và enzyme, cũng như dẫn truyền thần kinh. Thiếu hụt canxi trong thời gian dài có thể dẫn đến các bệnh lý nha khoa, tổn thương thần kinh, và loãng xương
Chloride là một chất điện giải giúp kiểm soát sự phân bố dịch và cân bằng pH trong cơ thể. Chloride thường được kiểm tra chung với các chất điện giải khác để chẩn đoán và theo dõi nhiều bệnh lý, bao gồm các bệnh lý thận, suy tim, bệnh gan...
Chất điện giải là các khoáng chất giúp kiểm soát lượng dịch và sự cân bằng của axit và bazơ trong cơ thể. Xét nghiệm điện giải đồ bao gồm: - Natri (Na): giúp kiểm soát lượng dịch trong cơ thể, đảm bảo hoạt động của các dây thần kinh và cơ bắp. - Clorua (Cl): cũng giúp kiểm soát lượng dịch trong cơ thể, điều hòa thể tích máu và huyết áp. - Kali (K): đảm bảo sự hoạt động bình thường của tim và cơ.
Sàng lọc các bất thường của thai nhi trong 3 tháng đầu thai kỳ bao gồm: Siêu âm kiểm tra độ mờ da gáy (NT), PAPP-A, hCG. Việc phối hợp các xét nghiệm này giúp tăng khả năng phát hiện các dị tật bẩm sinh như hội chứng Down, hội chứng Edward, Hội chứng Patau. Nếu kết quả bất thường, cần làm thêm các xét nghiệm khác như chọc ối, siêu âm thai đánh giá toàn diện để đưa ra chẩn đoán xác định.
Axit folic là một thành phần của vitamin B9, có vai trò trong việc hình thành các tế bào mới. Đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, acid folic đóng một vai trò rất quan trọng. Bổ sung đủ axit folic trước và trong khi mang thai giúp ngăn ngừa các dị tật bẩm sinh nghiêm trọng ở não hoặc cột sống của thai nhi.
HPV (Human papillomavirus), một loại virus rất phổ biến lây qua đường tình dục. Virus gây bệnh sùi mào gà (u nhú) ở người, được chia thành nhiều tuýp khác nhau, mỗi tuýp được xác định bằng cách đánh số. HPV các type 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66, 68 là các tuýp nguy cơ cao, làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung, âm đạo và âm hộ ở phụ nữ, cũng như ung thư dương vật ở nam giới. Ngoài ra, nhiễm HPV các type này còn có thể gây ung thư hậu môn, ung thư vòm họng ở nam và nữ.
HPV (Human papillomavirus), một loại virus rất phổ biến lây qua đường tình dục. Virus gây bệnh sùi mào gà (u nhú) ở người, được chia thành nhiều tuýp khác nhau, mỗi tuýp được xác định bằng cách đánh số. Các tuýp HPV nguy cơ cao (HPV 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66 và 68) có thể gây ra một số loại ung thư. Trong đó,HPV tuýp 16 và HPV tuýp 18, chịu trách nhiệm cho hầu hết các bệnh ung thư liên quan đến HPV. Các tuýp HPV nguy cơ thấp hầu hết không có triệu chứng. Đôi khi những tuýp này có thể gây mụn cóc ở cơ quan sinh dục, hậu môn, miệng hoặc cổ họng.
HPV (Human papillomavirus), một loại virus rất phổ biến lây qua đường tình dục. Virus gây bệnh sùi mào gà (u nhú) ở người, được chia thành nhiều tuýp khác nhau, mỗi tuýp được xác định bằng cách đánh số. Các tuýp HPV nguy cơ cao (HPV 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66 và 68) có thể gây ra một số loại ung thư. Trong đó,HPV tuýp 16 và HPV tuýp 18, chịu trách nhiệm cho hầu hết các bệnh ung thư liên quan đến HPV. Các tuýp HPV nguy cơ thấp hầu hết không có triệu chứng. Đôi khi những tuýp này có thể gây mụn cóc ở cơ quan sinh dục, hậu môn, miệng hoặc cổ họng.
Các bệnh lý liên quan đến chuyển hóa sắt thường gặp và có thể là do thiếu sắt hoặc quá tải sắt. Thiếu sắt có thể do tăng đào thải sắt hoặc giảm cung cấp. Quá tải sắt xảy ra khi vượt quá khả năng liên kết sắt của transferrin. Quá tải sắt cũng có thể xảy ra khi quá trình dị hóa hồng cầu tăng bất thường. Mức độ sắt được sử dụng để giúp chẩn đoán các loại thiếu máu cụ thể.
loading.svg