Xét nghiệm lẻ

AFP là một loại chất đánh dấu khối u thường được tạo ra bởi tế bào ung thư hoặc tế bào bình thường để đáp ứng với bệnh ung thư. Nồng độ AFP cao có thể là dấu hiệu của ung thư gan, buồng trứng hoặc tinh hoàn. Tuy nhiên, các tình trạng khác không phải là ung thư. có thể làm tăng nồng độ AFP. Do đó, xét nghiệm này không thể loại trừ chắc chắn ung thư. Các xét nghiệm khác nên được thực hiện để chẩn đoán đầy đủ.
Trong cơ thể, xương được liên tục được tu sửa theo hai bước: “phân hủy” xương (tái hấp thu) và thay thế xương bị loại bỏ bằng việc hình thành xương mới. Trong bệnh loãng xương, khối lượng xương bị mất vì quá trình phân hủy xảy ra nhanh hơn quá trình xây dựng lại. Khi xương bị tiêu hủy, các mảnh collagen của xương được giải phóng vào máu. Một trong những mảnh này được gọi là “C-telopeptide.” Xét nghiệm này được sử dụng để đánh giá tình trạng mất khối lượng xương (tiêu xương) trong trường hợp loãng xương hoặc các bệnh về xương khác như bệnh Paget.
Xét nghiệm được sử dụng để theo dõi trong và sau quá trình điều trịmột số bệnh ung thư và để kiểm tra tái phát sau khi kết thúc điều trị. Ngoài ra, xét nghiệm này còn giúp phát hiện sớm ung thư buồng trứng ở các đối tượng có nguy cơ mắc bệnh rất cao. CA-125 có thể tăng trong một số trường hợp không phải ung thư như u xơ tử cung. Các loại ung thư làm tăng nồng độ CA 125, bao gồm ung thư buồng trứng, nội mạc tử cung, phúc mạc và ống dẫn trứng.
Xét nghiệm CA 15-3 giúp các bác sĩ theo dõi và đánh giá hiệu quả của quá trình điều trị hoặc phát hiện nguy cơ tái phát ung thư vú. CA 15-3 không hữu ích cho những trường hợp ung thư vú giai đoạn đầu hoặc ung thư vú tại chỗ chưa xâm lấn, vì ít hơn 50% các trường hợp này có CA 15-3 tăng.
Xét nghiệm định lượng nhằm sàng lọc các bất thường liên quan đến tuyến tụy, mật trong cơ thể
CA72-4 là một chất đánh dấu khối u, thường tăng cao trong ung thư buồng trứng, đường tiêu hóa (tức là dạ dày, ruột kết và ruột non) và ung thư tuyến tụy. Xét nghiệm cũng được sử dụng để tiên lượng ung thư di căn và tái phát, đánh giá đáp ứng với quá trình điều trị.
Kháng nguyên carcinoembryonic (CEA) là một loại protein của thai nhi đang phát triển. Nồng độ CEA giảm dần hoặc biến mất sau khi sinh. Ở người lớn, mức CEA bất thường có thể chỉ ra bệnh ung thư .Hút thuốc cũng có thể làm tăng CEA. Xét nghiệm giúp theo dõi đáp ứng với điều trị và kiểm tra tái phát của ung thư đại tràng, tủy tuyến giáp, trực tràng, phổi, vú, gan, tuyến tụy, dạ dày và buồng trứng.
CRP là phân tử protein do gan sản xuất. Thông thường, CRP hiện diện trong máu với một lượng nhỏ. Gan sẽ tăng sản xuất CRP vào máu nếu có hiện tượng viêm xảy ra trong cơ thể. CRP trong máu tăng cao gợi ý tình trạng bệnh lý nghiêm trọng gây ra hiện tượng viêm.
CYFRA 21-1 dấu ấn ung thư, không chỉ có giá trị trong theo dõi ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC) khi kết hợp với CEA và SCC, mà còn đối với các loại ung thư khác như ung thư bàng quang. Trong quá trình ly giải các tế bào ung thư này, CYFRA 21-1 được phóng thích vào máu.
Axit lactic là một chất được tạo ra bởi tế bào cơ và hồng cầu. Nồng độ axit lactic máu tăng khi nồng độ oxy giảm. Xét nghiệm axit lactic thường được sử dụng để chẩn đoán nhiễm axit lactic, giúp đánh giá tình trạng cung cấp oxy cho các cơ quan trong cơ thể, chẩn đoán nhiễm trùng huyết (tình trạng đe dọa tính mạng khi bị nhiễm trùng).
loading.svg