Xét nghiệm lẻ

aPTT là xét nghiệm đo thời gian máu hình thành cục máu đông trong cơ thể. Thông thường, khi mạch máu bị tổn thương, các yếu tố đông máu sẽ kết hợp với nhau theo một trật tự nhất định để tạo thành cục máu đông và nhanh chóng cầm máu. Xét nghiệm này giúp đánh giá hoạt động của quá trình đông máu và thường được sử dụng với các xét nghiệm khác.
Creatine kinase (CK) là một loại enzyme hiện diện trong các tế bào khác nhau của cơ thể trong khi CKMB chủ yếu xuất hiện trong các tế bào cơ tim. Khi tế bào cơ tim bị tổn thương, CKMB sẽ được phóng thích vào máu. Đây là xét nghiệm đo lượng CKMB trong máu. Chỉ số CKMB tăng so với bình thường giúp gợi ý tình trạng tổn thương tế bào cơ tim.
Công thức máu hay tổng phân tích tế bào máu là một xét nghiệm máu phổ biến thường được thực hiện để kiểm tra sức khỏe định kỳ và chẩn đoán một số bệnh lý khác. Xét nghiệm này giúp phát hiện nhiều bệnh lý bao gồm nhiễm trùng, thiếu máu, các bất thường của hệ thống miễn dịch và bệnh lý huyết học bao gồm ung thư máu.
Công thức máu hay tổng phân tích tế bào máu là xét nghiệmgiúp sàng lọc và chẩn đoán các bệnh khác nhau bao gồm: thiếu máu, bệnh bạch cầu và các quá trình viêm nhiễm. Xét nghiệm được phân tích dựa trên máu cuống rốn.
Công thức máu hay tổng phân tích tế bào máu là xét nghiệm giúp phát hiện nhiều bệnh lý bao gồm nhiễm trùng, thiếu máu... Xét nghiệm hồng cầu lưới đo số lượng tế bào hồng cầu chưa trưởng thành trong tủy xương. Xét nghiệm này cho biết tủy xương của bạn có sản xuất đủ hồng cầu hay không, góp phần trong chẩn đoán và theo dõi các bệnh lý liên quan đến hồng cầu.
Xét nghiệm Coombs trực tiếp giúp phát hiện các kháng thể bám trên bề mặt hồng cầu. Những kháng thể này đôi khi phá hủy các tế bào hồng cầu và gây thiếu máu.Các bác sĩ sẽ yêu cầu thực hiện các xét nghiệm này nếu bạn có dấu hiệu hoặc triệu chứng thiếu máu hoặc vàng da (vàng da hoặc mắt).
Là enzyme được tìm thấy ở tim, não và hệ cơ. Xét nghiệm nhằm phát hiện sự viêm nhiễm ở hệ cơ xương hoặc chấn thương cơ xương khớp
D-dimer là một mảnh protein nhỏ được hình thành khi ly giải cục máu đông trong cơ thể. Cục máu đông giúp hạn chế sự mất máu khi cơ thể bị tổn thương. Thông thường, cục máu đông sẽ được li giải sau khi lành vết thương.Khi có các tình trạng bất thường, cục máu đông được hình thành ngay cả khi không có sự tổn thương, hoặc không được ly giải sau đó. Bất thường này rất nguy hiểm,thậm chí có thể gây tử vong. Xét nghiệm D-dimer giúp phát hiện sự hình thành cục máu đông bất thường trong cơ thể.
Thiếu men glucose-6-phosphate dehydrogenase (G6PD) là một rối loạn di truyền ảnh hưởng đến các tế bào hồng cầu mang oxy từ phổi đến các cơ quan trong cơ thể. Thiếu hụt này có thể dẫn đến tán huyết là tình trạng các tế bào hồng cầu bị phá hủy nhanh hơn sự sản xuất của cơ thể.
Homocysteine là một axit amin mà cơ thể bạn sử dụng để tạo ra protein. Thông thường, vitamin B12, vitamin B6 và axit folic (còn gọi là folate hoặc vitamin B9) giúp phân hủy nhanh chóng homocysteine thành những chất khác cần thiết cho cơ thể. Nồng độ homocysteine ​​cao trong máu gợi ý quá trình này gặp bất thường hoặc do thiếu hụt một số vitamin B. Xét nghiệm này được dùng để gợi ý tình trạng thiếu vitamin B6, B12, axit folic hoặc đánh giá yếu tố nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đột quỵ.
C-reactive protein (CRP là phân tử protein được sản xuất bởi gan. Thông thường, CRP hiện diện trong máu với một lượng nhỏ. CRP siêu nhạy (hs-CRP) là xét nghiệm giúp phát hiện được sự tăng CRP dù là một lượng rất nhỏ trong máu. Xét nghiệm này giúp đánh giá nguy cơ tim mạch và đột quỵ ở những người chưa có tiền sử tim mạch trước đó.
Troponin-I là một loại protein có trong cơ tim. Khi cơ tim bị tổn thương, troponin được phóng thích vào máu. Nồng độ troponin trong máu tăng gợi ý tình trạng tổn thương cơ tim đang hay đã xảy ra. Nhồi máu cơ tim là tình trạng cơ tim "bị chết'' do dòng máu lưu thông đến tim bị tắc nghẽn, có thể gây tử vong. Chẩn đoán và điều trị kịp thời giúp giảm tỷ lệ tử vong do nhồi máu cơ tim.
Lactate dehydrogenase (LDH) là một enzyme đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất năng lượng cho cơ thể. LDH được tìm thấy trong hầu hết các mô của cơ thể, bao gồm cả những mô trong máu, tim, thận, não và phổi. Khi các mô này bị tổn thương LDH được phóng thích vào máu. Nồng độ LDH trong máu tăng gợi ý tình trạng tổn thương hoặc phá hủy tế bào trong cơ thể.
loading.svg