Dương tính giả là một thuật ngữ thường gặp trong xét nghiệm HIV, đặc biệt là trong các bối cảnh người làm xét nghiệm có những vấn đề về nhiễm trùng, bệnh tự miễn, hoặc xảy ra một số thay đổi bất thường trong hệ miễn dịch. Vậy nên, để giải nghĩa dương tính giả HIV là gì cần kết hợp cả đánh giá lâm sàng, yếu tố nguy cơ và xét nghiệm bổ sung nếu cần thiết.

Dương tính giả HIV nghĩa là gì?

Dương tính giả trong xét nghiệm HIV là một kết quả cho biết người làm xét nghiệm đã nhiễm HIV nhưng thực tế người này không mang virus trong cơ thể. Đây là một dạng “báo động nhầm” của xét nghiệm, xảy ra khi hệ thống xét nghiệm phân tích mẫu máu phát hiện các yếu tố tương tự HIV nhưng thực chất không phải là HIV thật.

Dương tính giả có thể gọi là sai về mặt chẩn đoán. Tuy nhiên, “sai” này không phải là một sai sót hay lỗi trong xét nghiệm nếu đã đảm bảo thực hiện đúng quy trình xét nghiệm HIV kể từ lúc lấy mẫu đến lúc trả kết quả.

Thực chất, dương tính giả HIV phản ánh giới hạn bình thường của một phương pháp xét nghiệm HIV, bởi không có xét nghiệm nào đạt độ chính xác tuyệt đối 100%. Ngay cả những xét nghiệm hiện đại có độ đặc hiệu và độ nhạy rất cao (thường tên 99%) vẫn có xác suất rất nhỏ gây ra dương tính giả.

Kết quả dương tính giả này là hoàn toàn bình thường và đã được các nhà khoa học tính toán trước. Vì thế quy trình xét nghiệm luôn có các bước xét nghiệm bổ sung để lọc ra những trường hợp “sai tạm thời” và xác nhận lại kết quả.

Chính vì khả năng rất thấp này mà Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật (CDC) cùng nhiều tổ chức quốc tế khác đều khuyến cáo không bao giờ chẩn đoán HIV dựa vào một xét nghiệm duy nhất.

Dương tính giả HIV được hiểu là những trường hợp dương tính với HIV sau xét nghiệm nhưng thực chất là không nhiễm.
Dương tính giả HIV được hiểu là những trường hợp dương tính với HIV sau xét nghiệm nhưng thực chất là không nhiễm.

Nguyên nhân gây dương tính giả HIV

Hiện y học đã ghi nhận một số nguyên nhân có thể gây ra dương tính giả HIV như sau:

  • Nhiễm trùng virus EBV, CMV, viêm gan B/C, sốt rét, ký sinh trùng, vi khuẩn gây bệnh lao…
  • Sau tiêm vắc-xin cúm, viêm gan B, HPV…
  • Phụ nữ mang thai có sự thay đổi miễn dịch tạm thời.
  • Bệnh tự miễn/rối loạn miễn dịch như lupus ban đỏ hệ thống, viêm khớp dạng thấp, hội chứng Sjögren.
  • Truyền máu gần đây hoặc ghép tạng.
  • Đang sử dụng thuốc điều trị miễn dịch.
  • Lỗi trong quá trình làm xét nghiệm: mẫu máu bị dán nhãn sai, trộn lẫn hoặc bảo quản không đúng cách; đọc kết quả sai thời điểm; dùng hóa chất hết hạn; máu bị lây nhiễm chéo trong phòng xét nghiệm…
diag
Tầm soát 15 bệnh xã hội chỉ trong 1 xét nghiệm
  • 18 chỉ số phát hiện 15 tác nhân gây bệnh đường tình dục
  • Sàng lọc bệnh HIV, Lậu, Giang mai, Sùi mào gà…
  • Xét nghiệm riêng tư, bảo mật thông tin
  • Làm việc ngoài giờ hành chính tại 40+ điểm lấy mẫu.
200+
Cơ sở y tế đối tác
2400+
Bác sĩ tin tưởng

Cơ chế gây dương tính giả trong xét nghiệm HIV

Các nguyên nhân bên trên có thể được giải thích dựa trên 4 cơ chế gây dương tính giả sau đây.

Kháng thể phản ứng chéo

Cơ chế này xảy ra khi các kháng thể phản ứng chéo (được sinh ra một cách bình thường bởi hệ thống miễn dịch) liên kết nhầm với kháng nguyên HIV trong xét nghiệm do có cấu trúc tương tự với một phần của kháng nguyên HIV.

Cơ chế phản ứng chéo thường gặp trong các trường hợp:

  • Nhiễm virus EBV, CMV, viêm gan B/C, sốt rét, ký sinh trùng, lao…
  • Sau tiêm vắc-xin cúm, viêm gan B, HPV…
  • Phụ nữ mang thai có thay đổi miễn dịch tạm thời.
  • Đang sử dụng thuốc điều trị miễn dịch.
  • Truyền máu gần đây hoặc ghép tạng – do kháng thể lạ được đưa vào cơ thể.

Phản ứng miễn dịch bất thường

Cơ chế này xảy ra khi hệ thống miễn dịch bị rối loạn, từ đó sinh ra tự kháng thể hoặc globulin miễn dịch bất thường – có thể gặp trong các bệnh lý tự miễn. Những kháng thể này có thể liên kết nhầm với kháng nguyên HIV có trong bộ xét nghiệm, gây nhiễu và dẫn đến dương tính giả.

Cơ chế phản ứng miễn dịch bất thường có thể gặp trong các trường hợp:

  • Bệnh tự miễn như lupus, viêm khớp dạng thấp, hội chứng Sjögren…
  • Phụ nữ mang thai có thay đổi miễn dịch tạm thời.
  • Đang sử dụng thuốc điều trị miễn dịch.

Sai sót kỹ thuật trong xử lý mẫu

Đây là cơ chế do lỗi thao tác, thiết bị hoặc quy trình xét nghiệm chứ không liên quan đến tình trạng sức khỏe của người được xét nghiệm. Chẳng hạn như trong các trường hợp:

  • Nhiễm mẫu chéo do mẫu máu người không nhiễm HIV bị lẫn một lượng rất nhỏ mẫu máu dương tính.
  • Đọc kết quả sai thời điểm – quá muộn hoặc quá sớm thay vì phải đọc đúng sau 15 – 20 phút kể từ lúc thực hiện.
  • Pha dung dịch sai nồng độ hoặc dùng chất thử hết hạn.
  • Sử dụng thiết bị xét nghiệm không đúng cách, hoặc không tuân thủ đúng quy trình bảo quản, xử lý và phân tích mẫu.
  • Nhầm lẫn mẫu bệnh phẩm giữa, thường là gắn nhầm tên người dương tính HIV lên mẫu của người không dương tính.
Dương tính giả có thể xảy ra do nhiễm mẫu chéo khi mẫu máu người không nhiễm HIV bị lẫn một lượng rất nhỏ mẫu máu dương tính của người khác.
Dương tính giả có thể xảy ra do nhiễm mẫu chéo khi mẫu máu người không nhiễm HIV bị lẫn một lượng rất nhỏ mẫu máu dương tính của người khác.

Phản ứng đặc hiệu thấp trong nhóm nguy cơ thấp

Cơ chế này xảy ra khi một người sống trong cộng đồng có tỷ lệ mắc HIV rất thấp (ví dụ: người không có hành vi nguy cơ, học sinh, nhân viên văn phòng…) nhận được kết quả HIV dương tính nhưng thực sự là không nhiễm. Vì quá ít người thật sự nhiễm HIV trong cộng động này nên phần lớn kết quả dương tính lại rơi vào những người không nhiễm – tức là dương tính giả.

Có thể hiểu, trong một nhóm cộng đồng có nguy cơ rất thấp thì tổng số người mắc HIV thật sự là cực kỳ ít, và do đó khả năng thực sự nhiễm HIV của một người trong cộng đồng này vốn đã rất thấp từ trước khi xét nghiệm.

Vậy nên khi test HIV cho ra dương tính thì xác suất đây là kết quả sai (dương tính giả) lớn hơn rất nhiều so với trường hợp người đó thuộc nhóm nguy cơ cao. Nghĩa là nếu dựa vào kết quả dương tính trong nhóm nguy cơ thấp sẽ khó đưa ra kết luận ban đầu cũng như chẩn đoán sau đó, và luôn cần phải xác nhận lại.

Có thể thấy, các cơ chế gây dương tính giả bên trên đều có cơ sở để bắt buộc phải đánh giá lâm sàng và xét nghiệm xác nhận đi kèm với xét nghiệm HIV ban đầu. Điều này càng cần thiết hơn để giảm hiểu các vấn đề tâm lý ở người làm xét nghiệm, bởi HIV vốn là một căn bệnh cực kỳ nhạy cảm trong xã hội hiện nay.

Xét nghiệm khẳng định HIV có thể dương tính giả không?

Dương tính giả có thể xảy ra ở mọi xét nghiệm HIV, ngay cả ở xét nghiệm khẳng định (như Western blot, PCR HIV) vốn được xem là loại xét nghiệm có độ chính xác rất cao để xác nhận kết quả sàng lọc và hỗ trợ chẩn đoán.

Một trường hợp dương tính giả hiếm gặp đã được ghi nhận: một người phụ nữ sau nhiễm COVID-19 có kết quả test HIV dương tính giả ở cả hai bước xét nghiệm sàng lọc và khẳng định. Trường hợp này có khả năng cao là do cơ chế phản ứng miễn dịch bất thường và có thể chồng lấp với hiện tượng phản ứng chéo [1].

Mặc dù nguyên lý hoạt động giữa xét nghiệm sàng lọc và khẳng định là khác nhau, nhưng cả hai vẫn dựa trên vào phản ứng sinh học hoặc thao tác kỹ thuật, và do đó khả năng dương tính giả vẫn có thể xảy ra.

  • Western blot: Đây là test rất nhạy với các yếu tố sinh học. Do đó dương tính giả thường xảy ra trong các trường hợp kháng thể phản ứng chéo, miễn dịch bất thường, hoặc do sai sót kỹ thuật khi phải thực hiện qua nhiều bước phức tạp.
  • Test phân biệt HIV-1/HIV-2: Mặc dù có đặc hiệu hơn Western blot nhưng vẫn dựa vào cơ chế phát hiện kháng thể đặc hiệu chống lại từng loại HIV-1 hoặc HIV-2. Vậy nên nó có thể bị ảnh hưởng nhẹ bởi phản ứng chéo và miễn dịch bất thường.
  • PCR HIV: Đây là test có độ chính xác cực kỳ cao vì dựa vào nguyên lý tìm ARN/ADN của virus HIV trong máu. PCR chỉ gặp dương tính giả nếu có lỗi kỹ thuật nghiêm trọng như nhiễm chéo mẫu hoặc vấn đề trong bước khuếch đại vật liệu di truyền.

Nhìn chung, ngay cả các xét nghiệm với “độ tin cậy cao” cũng có nguy cơ dương tính giả. Vì lý do này mà WHO và CDC luôn nhấn mạnh: không chẩn đoán HIV chỉ dựa trên một xét nghiệm duy nhất, dù là xét nghiệm khẳng định, mà cần kết hợp cả đánh giá lâm sàng, yếu tố nguy cơ và lặp lại xét nghiệm với mẫu mới hoặc bằng phương pháp khác khi cần thiết.

Thậm chí cả xét nghiệm sinh học phân tử chính xác cao (như PCR HIV) vẫn có thể cho ra dương tính giả do một số sai sót kỹ thuật.
Thậm chí cả xét nghiệm sinh học phân tử chính xác cao (như PCR HIV) vẫn có thể cho ra dương tính giả do một số sai sót kỹ thuật.

Làm sao để biết kết quả là dương tính giả?

Trong đa số hệ thống y tế thì bạn sẽ không được thấy từng kết quả HIV riêng lẻ. Bạn chỉ nhận được kết luận cuối cùng sau khi đã hoàn tất các bước xét nghiệm sàng lọc và khẳng định. Hai bước này luôn đi chung với nhau trong hầu hết các quy trình.

Về bản chất thì kết quả HIV dương tính ban đầu chưa đủ cơ sở để khẳng định là nhiễm HIV. Chỉ sau khi bạn đã làm đủ các xét nghiệm khẳng định tại cùng một cơ sở y tế thì mới có thể đưa ra kết luận.

Vậy nên khuyến cáo y tế là bạn hãy luôn yêu cầu sự tư vấn chi tiết trước và sau khi xét nghiệm HIV. Các bác sĩ/nhân viên y tế sẽ giúp bạn hiểu rõ các thông tin quan trọng:

  • Đây là loại xét nghiệm gì, có công dụng gì?
  • Có cần làm lại xét nghiệm sau bao lâu?
  • Có cần xét nghiệm xác nhận nào khác không, ngay cả khi âm tính hoặc dương tính?

Bạn cũng cần giữ bình tĩnh xuyên suốt trước – trong – sau xét nghiệm, tuân thủ đúng hướng dẫn của nhân viên y tế, và không tự suy diễn kết quả nếu chưa được tư vấn chính thức.

Khi nào cần xét nghiệm lại nếu dương tính giả?

Để loại trừ khả năng dương tính giả, bạn có thể được yêu cầu làm xét nghiệm lại trong một số trường hợp sau:

  • Kết quả ban đầu là dương tính nhưng chỉ có xét nghiệm sàng lọc và chưa làm xét nghiệm xác nhận.
  • Kết quả xét nghiệm xác nhận không rõ ràng hoặc có kết quả loại “không xác định”, tùy trường hợp mà có thể cần xét nghiệm lại sau ít nhất 14 tuần kể từ lần đầu tiên.
  • Có yếu tố làm tăng nguy cơ dương tính giả, như người xét nghiệm thuộc nhóm nguy cơ rất thấp, không có yếu tố nguy cơ HIV, hoặc có tình trạng miễn dịch rối loạn, vừa tiêm vắc-xin, mang thai, hoặc có sử dụng thuốc miễn dịch.
  • Nghi ngờ có hành vi nguy cơ mới hoặc vừa tiếp xúc với HIV gần đây, với mục đích là phân biệt giữa nhiễm mới và sai sót dẫn đến dương tính giả.

Nguồn nghiên cứu tham khảo:

[1] False-Positive Screening and Confirmatory HIV Diagnostic Test in a Patient with Cured SARS-CoV-2 Infection Is Not Mediated by Env/Spike Cross-Reactive Antibodies (Sàng lọc dương tính giả và xét nghiệm chẩn đoán HIV xác nhận ở bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2 đã khỏi bệnh không được trung gian bởi kháng thể phản ứng chéo Env/Spike).