Trong bài viết này, DIAG chia sẻ thông tin về hai dạng bất thường nhiễm sắc thể phổ biến nhất. Đây là các bất thường có thể xảy ra trong giai đoạn mang thai. Chúng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai nhi và có thể để lại nhiều di chứng nguy hiểm sau sinh.

Bất thường nhiễm sắc thể là gì?

Bất thường nhiễm sắc thể (Chromosomal Abnormalities) là tình trạng rối loạn về số lượng hoặc cấu trúc nhiễm sắc thể, dẫn đến những thay đổi trong hệ gen và ảnh hưởng đến sự phát triển, sức khỏe của cơ thể.

Bất thường số lượng nhiễm sắc thể (Numerical chromosomal abnormalities – Aneuploidy)

Bất thường này xảy ra khi thai nhi có số lượng nhiễm sắc thể không đúng so với bộ nhiễm sắc thể bình thường của người (46 nhiễm sắc thể – chia thành 23 cặp, với một nhiễm sắc thể từ mỗi bên cha mẹ trong mỗi cặp). Bất thường này còn được gọi là lệch bội nhiễm sắc thể.

Bệnh xảy ra do lỗi trong quá trình phân chia tế bào trước khi thụ tinh giữa tinh trùng và trứng. Tình trạng lệch bội thường phát sinh khi nhiễm sắc thể không phân chia chính xác trong quá trình hình thành tế bào trứng hoặc tinh trùng, dẫn đến thừa hoặc thiếu nhiễm sắc thể. Thông thường, khi trứng và tinh trùng kết hợp sẽ tạo thành hợp tử có 46 nhiễm sắc thể. Lệch bội ở phôi thai có thể xảy ra nếu quá trình thụ tinh liên quan đến trứng và tinh trùng có bất thường về nhiễm sắc thể.

Thuật ngữ “Trisomy” đề cập đến sự hiện diện của ba bản sao của một nhiễm sắc thể cụ thể, trong khi “Monosomy” đề cập đến sự hiện diện của chỉ một bản sao thay vì hai bản sao thông thường.

Bất thường số lượng nhiễm sắc thể phổ biến bao gồm các dạng mất hoặc thừa một nhiễm sắc thể. Sự mất hoặc dư thừa này dẫn đến các vấn đề như hội chứng Down, Edwards, Patau khi thai nhi thừa một nhiễm sắc thể, hoặc dẫn đến hội chứng Turner khi thiếu một nhiễm sắc thể giới tính ở nữ giới.

Bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể (Structural chromosomal abnormalities – Delections & Duplications)

Bất thường này xảy ra khi một phần của nhiễm sắc thể bị mất, thêm, đảo ngược hoặc tái sắp xếp sai vị trí. Trong đó phổ biến là các bất thường liên quan đến mất đoạn (deletion) hoặc lặp đoạn (duplication) có thể được phát hiện qua NIPT.

Mất đoạn nhiễm sắc thể gây nên hội chứng như Cri-du-chat (mất đoạn 5p). Lặp đoạn nhiễm sắc thể gây những vấn đề như hội chứng lặp đoạn 16p12.2-p11.2.

Mất đoạn là một trong những bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể phổ biến.
Mất đoạn là một trong những bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể phổ biến.

Yếu tố nguy cơ của bất thường số lượng nhiễm sắc thể

Hầu hết các trường hợp lệch bội nhiễm sắc thể xảy ra một cách tự phát, không có nguyên nhân cụ thể được biết đến. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra một số yếu tố nguy cơ của bất thường nhiễm sắc thể gồm:

  • Tuổi tác của cha mẹ: Nguy cơ bất thường số lượng nhiễm sắc thể tăng lên theo tuổi tác của người mẹ, đặc biệt là sau 35 tuổi. Điều này là do trứng của phụ nữ lớn tuổi có nhiều khả năng phân chia bất thường hơn. Tuổi của người cha cũng có thể là một yếu tố nhưng ảnh hưởng ít rõ rệt so với tuổi của mẹ.
  • Yếu tố di truyền: Một số người có thể mang gen làm tăng nguy cơ lệch bội nhiễm sắc thể. Nếu trong gia đình có người bị lệch bội nhiễm sắc thể thì nguy cơ mắc bệnh ở thế hệ sau sẽ cao hơn.
  • Yếu tố môi trường: Phụ nữ trong quá trình mang thai tiếp xúc với các chất độc hại như thuốc trừ sâu, bức xạ, benzen, chì và một số loại thuốc có thể làm tăng nguy cơ bất thường số lượng nhiễm sắc thể ở thai nhi.
  • Bệnh lý nền của người mẹ: Một số bệnh lý như tiểu đường, bệnh tuyến giáp và béo phì có thể làm tăng nguy cơ bất thường số lượng nhiễm sắc thể.
  • Lối sống không lành mạnh: Hút thuốc lá, uống rượu bia và sử dụng ma túy có thể làm tăng nguy cơ bất thường số lượng nhiễm sắc thể ở thai nhi.

Di chứng của bất thường số lượng nhiễm sắc thể

Hầu hết các trường hợp bất thường số lượng nhiễm sắc thể đều gây tử vong cho trẻ sơ sinh. Hoặc các trường hợp lệch bội có thể gây ra các dị tật bẩm sinh như:

  • Bất thường về thể chất và sự phát triển, biến chứng bệnh bao gồm chậm phát triển về cả nhận thức và kỹ năng vận động, dẫn đến ảnh hưởng trí tuệ và khó khăn trong học tập.
  • Bất thường về thể chất như đặc điểm khuôn mặt và dị tật chân tay.
  • Biến chứng về tim, rối loạn chức năng nội tạng, các vấn đề về thận hoặc cơ quan sinh sản.
  • Giảm tuổi thọ, đặc biệt là khi tình trạng này dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng hoạt động của các cơ quan hoặc hệ thần kinh.
  • Vấn đề về hành vi hoặc tâm thần, gây ảnh hưởng làm tăng nguy cơ mắc các hội chứng như lo âu, trầm cảm hoặc trong các thách thức xã hội khác.
  • Một số trường hợp xuất hiện các vấn đề về sinh sản như vô sinh hoặc cơ quan sinh dục chậm phát triển.

Các hội chứng và bệnh lý phổ biến liên quan đến bất thường nhiễm sắc thể

1. Hội chứng Down (Trisomy 21)

Đây là hội chứng Trisomy phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh còn sống do bất thường số lượng nhiễm sắc thể, xảy ra khi có ba bản sao của nhiễm sắc thể số 21. Tỷ lệ mắc hội chứng Down là 1/660, cứ 660 trẻ sơ sinh còn sống sẽ có 1 trẻ mắc hội chứng.

Mặc dù có thể sống tới tuổi trưởng thành với biểu hiện lâm sàng có thể khác nhau, nhưng đặc điểm thường gặp bao gồm:

  • Chậm phát triển và khuyết tật trí tuệ ở mức nhẹ đến vừa.
  • Dị dạng sọ mặt đặc trưng với gương mặt bẹt, mắt xếch, mũi tẹt và lười thè ra.
  • Dị tật về cấu trúc tim.
  • Giảm trương lực cơ.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Down.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Down.

2. Hội chứng Edwards (Trisomy 18)

Đây là hội chứng Trisomy phổ biến thứ hai ở trẻ sơ sinh còn sống xảy ra khi có ba bản sao của nhiễm sắc thể số 18, với tuổi thọ thường là dưới một tuổi. Hội chứng Edwards có tỷ lệ 1/3.333, nghĩa là cứ 3.333 trẻ sau sinh sống thì có 1 trẻ mắc hội chứng.

Đặc điểm thường gặp ở hội chứng Edwards gồm:

  • Chậm phát triển trong tử cung.
  • Chậm phát triển và khuyết tật trí tuệ nghiêm trọng.
  • Dị tật ở bàn tay và/hoặc bàn chân.
  • Dị tật tim và nhiều hệ cơ quan khác như tim mạch, tiêu hóa…
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Edwards.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Edwards.

3. Hội chứng Patau (Trisomy 13)

Đây là hội chứng nghiêm trọng xảy ra khi có ba bản sao của nhiễm sắc thể số 13 với tỷ lệ mắc bệnh là 1/5.000, nghĩa là cứ 5.000 trẻ sau sinh còn sống thì có 1 trẻ mắc hội chứng Patau. Hầu hết trẻ em mắc hội chứng này đều có tuổi thọ ngắn không quá một năm đầu đời, tuy nhiên, phần lớn các trường hợp được chẩn đoán trước sinh của hội chứng là mất sớm trong tử cung.

Đặc điểm của của hội chứng thường là:

  • Bất thường nghiêm trọng ở các cơ quan như tim, não, thận…
  • Khuyết tật phát triển và trí tuệ nghiêm trọng.
  • Sứt môi, chẻ vòm hầu, hở hàm ếch, thừa ngón tay, ngón chân.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Patau.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Patau.

4. Hội chứng Turner (XO)

Đây là hội chứng chỉ xảy ra ở nữ giới khi chỉ có một nhiễm sắc thể X duy nhất (45,X) thay vì cặp XX như bình thường. Cứ 2.000 trẻ sau sinh thì có 1 trẻ mắc hội chứng Turner với tỷ lệ sảy thai cao ở các thai có thể đơn nhiễm X.

Biểu hiện lâm sàng của hội chứng có thể khác nhau nhưng đặc điểm phổ biến là:

  • Chiều cao thấp.
  • Dị tật về cấu trúc tim.
  • Rối loạn chức năng buồng trứng, dẫn đến mất kinh và vô sinh.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Turner.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Turner.

5. Hội chứng Jacobs (XYY)

Hội chứng xảy ra ở nam giới khi có thêm một nhiễm sắc thể Y (47,XYY) với tỷ lệ là 1/1.000, nghĩa là cứ 1.000 trẻ nam sau sinh còn sống thì có 1 trẻ mắc hội chứng Jacob.

Trẻ sau sinh mắc hội chứng có khả năng sinh sản bình thường và phát triển với những đặc điểm sau:

  • Tăng nguy cơ tăng động giảm chú ý và các rối loạn phổ tự kỷ.
  • Khó khăn khi học tập, nói.
  • Chậm phát triển ngôn ngữ.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Jacobs.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Jacobs.

6. Hội chứng Klinefelter (XXY)

Hội chứng chỉ xảy ra ở nam giới khi có thêm một nhiễm sắc thể X làm cho bộ nhiễm sắc thể giới tính là XXY thay vì XY. Tỷ lệ mắc hội chứng Klinefelter là 1/500, nghĩa là cứ 500 trẻ sơ sinh nam còn sống thì có 1 trẻ mắc hội chứng.

Biểu hiện lâm sàng có thể khác nhau nhưng đặc điểm của hội chứng thường là:

  • Khó khăn khi học tập, nói và chậm phát triển ngôn ngữ.
  • Cao hơn chiều cao trung bình.
  • Tinh hoàn kém phát triển, thường dẫn đến vô sinh.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Klinefelter.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Klinefelter.

7. Hội chứng Triple X (XXX)

Hội chứng xảy ra khi nữ giới có 3 nhiễm sắc thể X (47,XXX) thay vì chỉ có hai, với tỷ lệ mắc bệnh là 1/1.000 – nghĩa là cứ 1.000 trẻ sau sinh nữ thì có 1 trẻ mắc hội chứng Triple X. Phần lớn nữ giới mắc hội chứng có hình thể và khả năng sinh con bình thường mà không biểu hiện đặc biệt ra bên ngoài.

Đặc điểm thường gặp ở hội chứng là:

  • Cao hơn chiều cao trung bình.
  • Khó khăn khi học tập, nói, chậm phát triển ngôn ngữ.
  • Khó khăn trong hành vi và cảm xúc.
  • Chậm phát triển kỹ năng vận động.
  • Phát triển giới tính và và khả năng sinh sản không bình thường, có thể gây suy buồng trứng sớm.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Triple X.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng Triple X.

8. Biến thể nặng của Hội chứng Klinefelter

Hội chứng xảy ra khi nam giới có nhiều hơn hai nhiễm sắc thể X, ví dụ như XXXY hoặc XXXXY, nhưng hiếm gặp và thường nghiêm trọng hơn hội chứng Klinefelter điển hình (XXY).

Các biến thể này gây rối loạn phát triển nghiêm trọng, khiến trẻ gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp và vận động. Trẻ nam thường bị giảm testosterone nặng, dẫn đến các vấn đề rối loạn sinh dục nghiêm trọng, thậm chí là vô sinh hoàn toàn. Ngoài ra, trẻ còn có bất thường về cơ xương, tứ chi dài bất thường, mặt thô ráp.

9. Hội chứng DiGeorge

DiGeorge là hội chứng do bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể phổ biến nhất, xảy ra khi mất một đoạn nhỏ trên nhiễm sắc thể số 22 (vị trí 22q11.2). Tỷ lệ mắc bệnh dao động cứ 3.000 – 6.000 trẻ thì có 1 trẻ mắc hội chứng DiGeorge, và tỷ lệ 1/185 thai kỳ có nguy cơ cao mắc hội chứng này.

Đặc điểm của trẻ sau sinh mắc bệnh thường là:

  • Dị dạng khuôn mặt với hở hàm ếch, thiểu năng vòm hầu.
  • Dị tật tim bẩm sinh.
  • Suy giảm miễn dịch.
  • Chậm phát triển trí tuệ.
  • Gặp khó khăn trong học tập và ngôn ngữ.
  • Có nguy cơ tự kỷ và rối loạn tâm thần.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng DiGeorge.
Bất thường nhiễm sắc thể trong hội chứng DiGeorge.

10. Trisomy 9

Bất thường xảy ra khi có thêm một bản sao của nhiễm sắc thể 9, gây nhiều dị tật như sọ nhỏ, trán nhô cao, mắt xa nhau, tai thấp, ngón tay dài bất thường, chân tay biến dạng. Trẻ sau sinh mắc dị tật tim bẩm sinh nghiêm trọng (như thông liên thất, bất thường van tim), thường không sống quá 1 năm đầu đời.

11. Trisomy 16

Bất thường xảy ra khi có thêm một bản sao của nhiễm sắc thể 16. Hầu hết các trường hợp Trisomy 16 hoàn toàn thường dẫn đến sảy thai sớm. Nếu sống sót dưới dạng trisomy 16 thể khảm thì trẻ thường sinh ra nhẹ cân do chậm phát triển bào thai, hoặc gặp những vấn đề như dị tật tim bẩm sinh nghiêm trọng (như hẹp động mạch phổi, bất thường van tim), bất thường xương (như gù vẹo cột sống, trật khớp háng bẩm sinh), chậm phát triển trí tuệ, rối loạn vận động nhẹ đến trung bình.

12. Trisomy 22

Bất thường xảy ra khi có thêm một bản sao của nhiễm sắc thể 22. Trisomy 22 hoàn toàn thường gây sảy thai sớm, một số trường hợp sống sót có trisomy 22 thể khảm. Trẻ thường có dị tật bẩm sinh (như thông liên thất, bất thường động mạch chủ), bất thường sọ mặt nhẹ (như tai nhỏ, mắt xếch), suy giảm miễn dịch, dễ nhiễm trùng, chậm phát triển trí tuệ, rối loạn thần kinh, co giật.

Lời kết

Như vậy bài viết đã giải thích bất thường nhiễm sắc thể là gì, đồng thời chia sẻ đến bạn 12 hội chứng nguy hiểm ở thai nhi do sự bất thường này gây ra. Những bất thường nhiễm sắc thể có thể gây nên nhiều di chứng nghiêm trọng ở thai nhi. Do đó cần tầm soát để phát hiện sớm, từ đó có hướng chữa trị, theo dõi, cũng như hỗ trợ đưa ra các quyết định thai sản phù hợp.